Đền thờ bà Nguyễn Thị Bích Châu
- - Giữ cội gốc của nước trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
- - Giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối.
- - Nén chặt kẻ chuyên thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
- - Phải bớt kẻ lũng lạm, để trừ tệ khoét đục của dân.
- - Cổ động nho phong, khiến cho lửa bó đuốc với ánh mặt trời cùng soi sáng.
- - Mở đường cho người nói thẳng, để cho cửa thành cùng với đường cùng can gián mở toang.
- - Kén quân, nên chú trọng vào dũng lực cao lớn.
- - Chọn tướng, nên cần người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
- - Khí giới quý hồ bền chắc không chuộng hình thức.
- - Trận pháp cốt cho chỉnh tề, cần chi điệu múa.
Tên thật : Nguyễn Thị Bích Châu
Tộc danh : Bích Lưu
Biệt hiệu : Phù Dung - Nguyễn Cơ Bích Châu
Phẩm trật : Cung phi (ái phi vua Trần Duệ Tông)
Truy phong : Thần phi – Phu nhân Bích Châu
Năm, nơi sinh : 1356? Không có sử liệu nào viết về quê quán của bà.
Tác phẩm:
-Bản điều trần dâng vua, nhan đề Kê minh thập sách (bằng chữ Hán)
-Bài biểu dâng vua (chữ Nôm)
Truyền rằng bà Bích Châu là con gái cưng của vị quan họ Nguyễn, một cận thần dười triều Trần.
Bà được cha mẹ nâng niu đặt tên Nguyễn Thị Bích Châu, tự là Bích Lưu. Ngụ ý con gái cảu ông bà quí giá sánh với châu ngọc, lưu ly ở trên đời.
Nàng Bích Châu sớm nổi tiếng thông tuệ. Giỏi văn chương thi phú, thạo âm nhạc.
Càng lớn, nhan sắc nàng Bích Châu càng diễm lệ, lại có một khối óc nhận xét rất tinh vi, xuất sắc.
Năm 16 tuổi (khảong 1372) được cha dâng biểu cho tiến cung; từ đó nàng Bích Châu được làm cung phi chầu hầu bên vua Trần Duệ Tông, lúc đàn ca, khi ngâm vịnh, được nhà vua rất đỗi thương yêu, gọi là Nguyễn Cơ Bích Châu. Sau lại phong tặng là ái phi, thường gọi ái phi Bích Lưu hay ái phi Bích Châu.
Một hôm, nhân tiết trung thu, nàng Bích Châu bày tiệc nhỏ trên gác tía, chung quanh treo lồng sắc trắng chen đủ màu rất đẹp.
Vua Duệ Tông tỏ vẻ hài lòng hết ngắm trăng lại ngắm đèn, bỗng nhà vua cao hứng ra câu đối:
Hàng quan dự tiệc đều buông đũa suy nghĩ. Họ đang mải miết tìm vần thì cung phi Bích Châu đã chắp tay, cất tiếng:
-Tâu thánh thượng, thần thiếp xin kính đối:
Vua đắc ý khen hay và thưởng cho đôi “ngọc long kim nhĩ” (hoa tai vàng cẩn ngọc hình rồng nổi) và nhân đó lại đặt biệt hiệu cho nàng là Phù Dung.
Sau thời gian ngắn ở chốn hoàng cung, ái phí Bích Châu nhận thất đức quân vương tính nóng nảy, thiếu bản lĩnh, triều chinh đang có nguy cơ rạn nứt suy sụp, nàng đăm chiêu chú tâm soạn thảo bản điều trần dâng vua, nhan đề: “Kê minh thập sách” nêu 10 kế sách trị nước an dân. Đại ý mượn tiếng gà gáy sáng để thức tỉnh nhà vua, với những lời tâm huyết được trải ra từng câu, ví như:
Dịch:
(Điều một - bền gốc nước, trừ kẻ bạo thỉ dân chúng được yên).
Tứ viết - thải nhũng lại dĩ tính dân ngự
Dịch:
(Điều bốn - đuổi bọn quan lại tham nhũng để bớt vơ vét của dân)
(Trích Kê minh thập sách)
Xem xong bản điều trần của ái phi Bích Châu, nhà vua cảm kích vỗ trán thốt lên:
-Không ngờ ái phi lại thông tuệ đến thế? May cho trong cung của trẫm xuất hiện một bậc Từ Phi (vợ Đường Thái Tông bên Tàu nổi tiếng văn chương).
Nhưng sau đó, bản điều trần ấy không được vua quan tâm đến nên chẳng
thực hiện một điều nào, thật đáng tiếc.
Năm 1376, đất nước ta bị quân Chiêm Thành (Chế Bồng Nga) thường sang gây hấn quấy rối. Mùa Đông năm đó giặc lại tràn sâu vào lãnh địa của ta phá phách rất hung bạo.
Vua Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Nàng Bích Châu bồn chồng lo lắng dâng biểu khuyên can.
Rồi nàng lại viết tiếp đoạn ngắn nhắc nhở nhà vua:
“…Việc trị đạo nước trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàn. Trị cái rắn nên dùng cái mềm, phục rợ xa cốt lất đức… Đó là thượng sách, xin hoàng thượng xét đoán cho minh.”
Bài biểu dâng lên cũng không lay chuyển nổi nhà vua. Cung phi Bích Châu buồn lo than thở:
“…Nghĩa lớn là vua tôi, ái tình là vợ chồng. Vậy mà không giỏi khuyên can để giữ nền bình trị, không biết khéo lời để ngăn lòng hiếu chiến, như thế ta đã là người vô dụng chăng?”
Biết nhà vua nhất định không chịu nghe, nàng đành xin đi theo hộ giá. Lại truyền rằng buổi xuất binh ngày ấy cờ xí rợp trời, chiêng trống dậy đất, truyền rằng trùng trùng lớp lớp, binh sĩ gương giáo sáng loáng, hùng khí chất ngất từng mây.
Nhưng khi đoàn thuyền chiến vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh Nghệ Tĩnh) trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp. Đoàn thuyền đành tạm neo ngay lại đấy. bởi mặt biển thường nổi sóng cao và xoáy lốc, ngay sát bờ đã là dãy vực thẳm đầy đá nhọn, ra càng xa thì vực càng sâu, lòng biển lởm chởm hàng khối đá ngầm.
Binh thuyền phải vất vả thương tổn khá nhiều mới ràng nổi dây neo. Nhưng cơn dông bão vẫn dai dẳng càng lúc càng dữ dội hơn. Đoàn thuyền chiến nhấp nhô đập chúi vào nhau rầm rầm? Nhiều cái bị đứt dây, lao đi vùn vụt đâm vào đá vỡ toang. Quân lính lớp chết, lớp kêu la chới với. Số còn sống ai nấy đều kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Nàng Bích Châu sợ hãim đứng ngồi không yên. Chợt nàng thoáng nghe chuyện thần biển đòi mỹ nữ. Trong lúc cấp bách, nàng thảng thốt vừa quả cảm nghĩ ngay việc liều mình để giữ quân kỷ và thể diện nhà vua, giúp đất nước. Nàng Bích Châu liền tâu vua cho phép nàng được hiến thân cho thần biển; cầu xin thần phù hộ quân nhà vua sớm toàn thắng.
Vua Duệ Tông bàng hoàng chưa kịp phán bảo cản ngăn thì nàng Bích Châu đã nhanh nhẹn quay ra thuyền lệnh:
“… Các quan mau mau sửa soạn lễ vật cúng thần biển, kính báo thời khắc thiếp tôi được nhà vua cử làm sứ giả đi gặp thần biển xin sóng lặng bể yên phù trợ cho vua quan, quân lính nhà Trần được chiến thắng dịp này, đem bình an về cho đất nước”
Nàng vừa dứt tiếngthì từ nhà vua đến các quan có mặt quanh đó đều sửng sốt, nghẹn lời…
Mặc hết những lời can ngăn, nàng Bích Châu vẫn một mực tha thiết tâu xin cho nàng có dịp được vinh hạnh phò vua, giúp quân, đền nợ nước.
Không làm sao hơn, tất cả đều nén lòng nghe theo ý chí cương quyết của cung phi Bích Châu. Một cung nữ tài sắc, mới kề cận nhà vua được bốn năm, được vua Duệ Tông sủng ái rất mực như vậy mà dám lìa bỏ tất cả, can đảm hy sinh tính mạng thì thật là một việc làm quá phi thường.
Trước tình cảm vua tôi bi thiết, ngoài khoang bão sấm sét vẫn đùng đùng long trời lở đất. Sóng biển vẫn gần hú, bổ vào mạn thuyền.
Chiếc thuyền rồng chao đảo ngả nghiêng. Nàng Bích Châu thản để thị nữ xông trầm, trang điểm cho mình. Thoáng chốc, nàng đã trâm thoa, xiêm gấm, hài thêu lộng lẫy bước ra…
Trước mắt mọi người lúc này, vẻ đẹp của nàng Bích Châu đang tỏa ánh hào quang như một vị thiên thần. Phải, chính đó là một vị ái phi mới 20 tuổi của nhà vua, giai nhân tuyệt sắc ấy đang đứng ở vị thế là một nữ dũng tướng của quan quân triều Trần Duệ Tông (thuộc thế kỉ 14).
Vua Duệ Tông xót trút bỏ giáp trụ, thương cảm trong lớp hoàng bào. Ngài trịnh trọng đội mũ triều thiên để kính cẩn đưa tiễn nàng ái phi dũng cảm ra đi. Nhà vua nén thương đau phong tặng nàng là Thần phi.
Mặc cho sóng đánh tối tấp, nước tràn lênh láng, nàng Bích Châu vẫn tươi tắn đến sụp quì lạy đức quân vương, cầu chúc nhà vua bình tĩnh và đại thắng, rồi quay về hướng Bắc lạy cha mẹ, vái chào tử biệt hàng quan quân, trang nghiêm đến ngồi gọn vào trong lòng chiếc thuyền thoi nhỏ nhắn có cắm đại hoàng kỳ (cờ nhà vua). Chiếc thuyền được quan quân thòng dây thả từ từ xuống biển, giữa những cơn sóng thần liên tiếp quật nước lên cao. Nàng Bích Châu bình tĩnh nắm dây nhắm mắt.
Vừa đụng nước, chiếc thuyền lập tức quay vòng ngụp lặn với sóng cả rồi chìm lỉm mất hút. Đem theo một trái tim rực rỡ ánh châu ngọc lưu ly nhập cõi thuỷ tận.
Gió vẫn hú, sóng vẫn gầm… hoà rền rền cùng tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng quan quân nức nỡ khấn lạy vị thần phi. Âm thanh lừng lừng nào động ấy cũng không át nổi tiếng gào của nhà vua réo gọi ái phi Bích Châu!
Đặc biệt trong cơn hoảng loạn ấy nhà vua tức tưởi nhắc đến bản điều trần của ái phi với trần đầy tiếc nuối…
Hai ngày sau bão mới ngớt, xác phu nhân Bích Châu nổi trên mặt biển, vẫn uy nghi trong bộ triều phục, nhấp nhô theo làn sóng bạc trôi dần vào bờ, được dân làng vớt lên rước đi an táng tại làng Kỳ Hoa. Cũng là lúc mà đoàn thuyền chiến của vua Trần Duệ Tông đã lướt tiến khá xa, chở đầy những bầu máu nóng sẵn sáng lao vào trận tiền với quyết tâm diệt giặc giữ yên bờ cõi, đền bù tâm nguyện của phu nhân Bích Châu trước giờ tử biệt.
Đến nay, tại làng Kỳ Hoa vẫn còn thờ, thờ thần phi Bích Châu.
Thần phi Nguyễn Thị Bích Châu đã ra đi từ gần 7 thế kỷ qua, nhưng tấm gương hi sinh vì nước, vì dân của bà vẫn còn chói sáng đến muôn đời sau.
Phần sáng tác của bà Bích Châu, tuy còn lại rất ít, nhưng chỉ với bài “Kê minh thập sách” đã chứng tỏ ngòi bút sắc bén của cung phi nữ sĩ Bích Châu đáng bậc nữ lưu văn học dưới triều Trần Duệ Tông.
Nữ sĩ cung phi Bích Châu đã thực sự đóng góp vào nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học viết từ đời Trần của giới nữ nói riêng, một áng văn bác học tinh tế. Lời văn hùng hồn và thiết thực có giá trị như một ngọn đuốc soi đường cứu đất nước một cách tích cực, tỏ rõ tâm hồn tha thiết yêu nước thương dân của nữ sĩ cung phi Bích Châu.
Phù Dung Nguyễn Thị Bích Châu (Bình Ninh) |
PHÙ DUNG NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU
Cuộc Đời & Huyền Thoại
Nguyễn Thị Bích Châu là ái phi của vua Trần Duệ Tông (1372-1377), nổi tiếng thơ văn, tài sắc, đức hạnh vẹn toàn.
Tương truyền nhân đem Trung thu, vua Trần ra vế đối:
“Thu thiên ngọa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế”
(Trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng).
Bà ung dung đối lại:
“Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thủy để phù dung”
(Sắc xuân đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước).
Vua ngợi khen và ban tặng cho bà đôi hoa tai nạm ngọc hình rồng leo (Ngọc long kim nhỉ), từ ấy đặt cho bà biệt hiệu Phù Dung.
Trong nước lúc bấy giờ chính sự đổ nát, bà thảo một bản điều trần với nhan đề “Kê minh Thập sách” dâng lên vua. Nguyên tác bằng Hán văn, dịch ra Việt văn là:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp lò, phải lo trị nước trước khi chưa loạn; lấy dân ràng cửa tổ, ở hồi yên phải nghĩ lúc nguy.
Vì nhân tình dễ đắm cuộc yên vui, mà thế đạo khó được thường bình trị. Cho nên ca dao trước đã ca ngợi, rồi dâng lời can chớ biếng chớ hoang; Giả Phó từng đã thở dài, ấy là lúc thái bình thịnh trị.
Chính bởi yêu vua mà lo ngăn nước, phải đâu khác chúng để khoe tài.
Thần thiếp Bích Châu này lúc nhỏ sinh ra ở chốn nghèo hèn, lớn lên được vào cung cấm. Cuộc yến tiệc thường được ban ơn, mắt long nhan bao lần soi tới. Vá áo xiêm vua Ngu dám sánh đâu người nam tử, trút trâm như bà Khương thiếp xin làm trước đình thần. Kính dâng mười kế sách, mong được một điều:
-Một là bền gốc nước, bỏ điều tàn bạo thì lòng người được yên.
-Hai là giữ nếp xưa, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối.
-Ba là đè kẻ lộng quyền để trừ mọt nước.
-Bốn là thải bọn nhũng lại để bớt hại dân.
-Năm là mong chấn hưng nho phong, khiến lửa đốt sáng soi cùng nhật nguyệt.
-Sáu là cầu xin lời nói thẳng, để người người được bàn bạc khắp mọi nơi.
-Bảy là tuyển quân nên tìm sức khỏe hơn vóc người.
-Tám là kén tướng nên chọn thao lược hơn là gia thế.
-Chín là khí giới nên cần sắc bén chứ đừng chuộng hoa hòe.
-Mười là trận pháp cốt tề chỉnh chứ không cần đẹp mắt.
Xét mấy điều ấy rất cần thiết. Dám dâng lên tấm lòng trung thực, mong nhận cho lời nói quê mùa. Bỏ điều dở mà làm điều hay, xin bệ hạ lượng nghĩ. Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”.
Vua xem qua có khen mà không áp dụng. Chính sự vẫn rối nát.
Năm Đinh Ty (1377), Duệ Tong cất 12 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Bà có dâng biểu can ngăn, phân tích lợi hại rất rành mạch. Vua vẫn không nghe. Khi chinh Nam , trong số các cung phi theo hầu vua, có Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu.
Thuyền chinế tới cửa bể Kỳ Hoa (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) thì gặp sóng to gió lớn, không thể qua được. Đêm ấy nhà vua mộng thấy một vị thần xưng là Nam Minh đô đốc, thủ hạ của Quảng Lợi đại vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, y mới làm cho bể yên, sóng lặng để thuyền vua đi qua. Sáng hôm sau, mặt biển Kỳ Hòa nổi cuồng phong dữ dội. Các thuyền chiến chồng chành cơ chừng sắp bị nhấn chìm. Duệ Tông sợ hãi, kể lại giấc mơ hôm qua. Các cung nữ theo hầu mặt tái xanh, không ai dám mở miệng. Phù Dung Nguyễn Thị Bích Châu động lòng, xin tình nguyện nhảy xuống biển hiến tế làm vợ Thủy thần. Khi nàng vừa chìm sâu xuống nước thì sóng gió nguôi dần. Thuyền vua xuất chinh êm ả. Nhưng vì vua không nghe lời can gián, nên bị thua to, vua phải tử trận ở Đồ Bàn (Qui Nhơn ngày nay).
Gần một th6é kỷ sau, vào năm Hồng Đức thứ nhất (1470), vua Lê Thánh Tông (1460-1497) cũng thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Đem đóng quân ở biển Kỳ Anh, vua Lê mộng thấy một người nữ xinh đẹp hiện về, kể nông nổi bị Thủy thần ức hiếp đã lâu, xin vua ra tay cứu độ. Biết chuyện nàng Bích Châu đời Trần, hôm sau vua viết một tờ hịch hạch tội Nam Minh đô đốc, sai thả xuống biển. Một lát sau bổng thấy thi thể của nàng Bích Châu nổi lên mặt nứơc, dung nhan vẫn hồng hào như khi còn sống. Nhà vua sai an táng nàng theo nghi thức hoàng hậu, sắc phong “Chế Thắng linh thần” lập đền thờ cúng.
Ngoài ra vua Lê Thánh Tông còn làm một bài thơ điếu nàng Bích Châu như sau:
Bản thị Hy Lăng (1) cung lý nhân
Lâm nguy vị quốc độc vong thân
Yên phong nhất trận đào hao lãng
Xuân dạ tam canh độ nhược tân
Hàn thủy vô đoan mai Sở phụ
Hương hồn hà xứ điếu Tương quân?
Ta hồ, bách vạn hùng binh lữ
Bất tận thư sinh nhất hịch văn!
Dịch thơ Nôm:
Nàng xưa cung nữ của Hy Lăng (1)
Vì nước lâm nguy, quyết xả thân
Một trận gió yêu gây sóng cả
Hồn nương bến bãi suốt đêm xuân
Bông dưng sông lạnh vùi thân gái
Biết chốn nào đây viếng nữ thần?
Chán nhỉ, vạn ngàn quân tướng mạnh
Chẳng bằng tờ hịch gã thư sinh!
Bài thơ thật cảm động. Sáu câu đầu vua ca tụng đức xả thân cứu nước của nàng Bích Châu. Hai câu kết có ngụ ý chê vua Duệ Tông và tự đề cao mình. Có lẽ hương linh nàng Bích Châu không vui, vì chạm vào tình cảm kính trọng chồng. Cho nên khi vua Lê Thánh Tông thắng trận , lúc khải hoàn qua đây, nàng lại báo mộng cho vua, tạ ơn vua đã cứu mình, với lời van xin:
-Bài thơ nhà vua đề ở Đền lời ý đều hay, duy hai câu kết có ý phẩm bình chuyện cũ, khiến lòng thiếp không được yên!
Nhà vua sực tỉnh, sửa ngay hai câu kết thành:
Cương thường vạn cổ ưng vô quý
Từ hạ thư cưu hý thủy văn
(Vạn cổ cương thường lòng chẳng thẹn
Thư cưu giỡn sóng dưới chân đền)
Một cung phi lúc sống đã tỏ lòng trung can nghĩa khí, lúc mất đi vẫn hiển linh để giữ trọn đạo hiếu hạnh thủy chung như bà Nguyễn Thị Bích Châu, thật là một tấm gương sáng của giới nữ lưu, đáng cho hậu thế soi chung! Â
Chú Thích:
(1) Hy Lăng: Miếu hiệu của vua Trần Duệ Tông
- Sách tham khảo: Truyền kỳ tân phả- Đại Nam thống nhất chí
|
Chúc chú mùa Vu Lan vui vầy, hạnh phúc bên gia đình.
Gui a Cua hinh anh khu du lich que e ne !
Để muôn đời sách sử mãi còn ghi...
Đọc cho nó sướng nó say mới về
Ra về mà thấy phê phê
Lần sau lại nhớ tìm về hang cua ---------------------------------------------- Cua đồng anh chớ có đùa Phê phê sao nổi em ùa về đây Lần sau anh mún em say Đổi đề thi phú , đối say em dzìa
VÀ CHÚC MỘT NGÀY MỚI TỐT LÀNH
MỌI VIỆC NHƯ Ý
13:29 18-08-2010
Quá ! nhờ có anh Cua đồng mà em biết thêm một nhân vật lịch sử đáng
nghi nhớ như thế này. Và theo em được biết là Bà Bích châu đã được một
soạn giả cải lương trong nam viết bà, và cho ra một vở cải lương rất hay
đó anh à. Mà đã rất lâu rồi, nên em không nhớ tên soạn giả nào nửa. Cảm ơn anh ghé thăm nhà em chúc anh vui và có những lời commen thật hay và đáng để mọi người nhớ mãi !
Cho em xin đĩa này về nhà để hôm nào sinh nhật, anh sang em mời anh nhé!
Muon vao trong do e chung phai chi?
Doc tho toi ngam nghi suy
Chu Cua tai thuc kho bi ai hon.
gio co con sach nay ko anh ?